Liễu Giai là một làng có vị trí ở giữa khu Thập tam trại, tức là đất tổng Nội thời Pháp thuộc. Liễu Giai có cái tên gọi gợi sự tồn tại truớc kia của một trung tâm cư dân có dinh thự của các hoàng thân công chúa thời Lý-Trần Liễu Giai là con đuờng trồng liễu ở phía tây Hoàng thành, đối xứng với Hòe Nhai, con đường trồng hòe ở bên phía đông Hoàng thành.
Sau này (cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX), ranh giới làng Liễu Giai ở phía đông là con ngòi chảy từ núi Cung xuống phía nam, bên kia con ngòi ỉà làng Đại Yên; phía bắc giáp làng Vĩnh Phúc; phía tây giáp cánh đồng làng Kim Mã Thượng; phía nam giáp đầm Cánh Hàn và hồ Rau Muống.
Liễu Giai là một làng nhỏ, diện tích không rộng, số dân không đông (theo Ngô Vi Liễn: Les communes du Tonkin 1928: Liễu Giai có 334 người). Làng chi có một giáp. Các họ trong làng có họ Nghiêm (đông người nhất), họ Nguyễn, họ Trần, họ Ngô (ít người nhất).
Liễu Giai có đình và đền. Thành hoàng thờ ở trong đình là thái tể họ Hoàng; trong đền thờ Thủy Tinh công chúa. Hoàng Lệ Mật là thành hoàng chung của nhiều làng tổng Nội, nên hằng năm vào đám, Liễu Giai rước thần vị từ đình làng sang đền Đống Nước (ngày 23 tháng 3). Làng thưa dân lại nghèo nên lệ làng đóng góp không nặng lắm (thời Pháp thuộc, mua quan viên hết độ 10 đồng bạc).
Liễu Giai không có chùa riêng; các cụ bà đi lễ Phật, sang chùa Bát Tháp hoặc chùa Vĩnh Phúc.
Làng có ít ruộng, hầu hết lại là ruộng công, chia ra mỗi suất đinh chỉ được nửa sào. Vì vậy chỉ có mấy gia đình chuyên nghề làm mộng, họ thuê lại ruộng của người làng là phần mộng được chia, tập trung lại mới đủ đất để cấy lúa trồng màu.
Người làng phải ra ngoài kiếm ăn, họ đi làm công tại các nhà máy Rượu bia, nhà máy Thuốc lá Yên Phụ, sở Xe điện Thụy Khuê, nhà máy Thuộc da, song cũng chỉ làm những công việc lao động tạp vụ chứ không có nghề chuyên môn. Vài gia đình biết nghề thợ nề, đi làm thuê trong phố. Không có ai đi làm bồi bếp cho Tây ở trong phố, chỉ vì muốn được chủ nhân phải có người giới thiệu, hoặc đã có người họ hàng người làng đã đi làm nghề đó dắt díu nhau, số đông nguờỉ làng nghèo quá chỉ có nghề đi làm mướn hoặc kéo xe tay, xe bò.
Tuy ở gần Quần Ngựa mà người làng Liễu Giai cũng không kiếm ăn đuợc gì ngoài việc vào đó cắt cỏ đem đi bán ở các chợ chung quanh vùng. Kiếm ăn đã khó khăn chẳng được mấy, người làng lại hay cờ bạc, cần tiền thì đem độ ruộng được chia (cụ Ngô Văn Thạch).
Cả làng có độ dăm ngôi nhà ngói, đó là của mấy người đã từng ra làm chúc dịch trong làng, hoặc mấy người có chút ít văn hóa tiểu học ra làm cổng ở ngoài phố (như Cả Tô làm công cho hiệu Quảng Hưng Long, Hàng Bồ).
Nhà thờ Liễu Giai xây vào khoảng năm 1926 (năm mà Trưởng Thẩm làm lý trưởng); dân làng họp bàn xin phép quan trên bán đất cho Nhà Chung; tiền bán đất đem chia cho dân mỗi gia đình được 8 đồng bạc (cụ Ngô Văn Thạch).
Nhà thờ liễu Giai chiếm khoảng 6 mẫu đất, xây trường Thày dòng. Trong thời tạm chiếm, nhà thờ Liễu Giai biến thành nơi giam cán bộ kháng chiến bị mật thám bắt được, chỗ tra tấn và thủ tiêu tù nhân.