Năm 1979 lại có phương án mở rộng thành phố về phía tây, địa giới thành phố ra đến tận bờ sông Đà và sông Hồng phía thượng lưu Việt Trì; thành phố gồm cả vùng đồng bằng Hà Đông, vùng bán sơn địa Sơn Tây và vùng núi Ba Vì. Quốc hội đã thông qua và năm 1980 Hà Nội gồm 4 quận nội thành, 11 huyện ngoại thành, 2 thị xã (Sơn Tây, Hà Đông), 5 thị trấn (sau đặt thêm 6 thị trấn mới nữa thành 11 thị trấn). Diện tích Hà Nội mới là 2.122,8 kilômét vuông với số dân là 2.556.991 người.
Như vậy địa giới Hà Nội hiện nay như sau: phía bắc giáp tỉnh Bắc Thái (có sông Công làm phân giới), phía tây giáp tỉnh Vĩnh Phú, phía đông giáp tỉnh Hà Bắc (có sông cầu làm phân giới) và tỉnh Hải Hưng (có đoạn sông Hồng làm phân giới). Đỉnh cao nhất ở phía bắc là vĩ tuyến 21°25''B (sông Công) và chỗ xa nhất ở phía nam là vĩ tuyến 20°56’B (xã Nhị Châu - Thanh Trì), dài 54 cây số theo đường chim bay; phía cực tây là kinh tuyến 105°17’Đ (sông Đà) và cực đông là kinh tuyến 105°01’Đ (xã Toàn Thắng trên bờ sông Đuống), dài 78 cây số theo đường chim bay.
Việc mở rộng Hà Nội năm 1979 là để đáp ứng với yêu cầu xây dựng một thủ đô của nước Việt Nam đã được thống nhất hai miền Nam Bắc, một thủ đô dự kiến có trên 2 triệu dân.
Và theo đường lối phân cấp tự quản, tự lo liệu lấy những vấn đề kinh tế và xã hội, Hà Nội phải có đủ khả năng điều động nhân lực cho những công tác lớn, nhất là đảm bảo vùng lúa, vùng rau xanh, chăn nuôi, tự cấp những nguyên liệu cho công nghiệp thủ đô (thuốc lá, mía...) tức là Hà Nội phải có một nền kinh tế đa dạng.